THẦY CHU XUÂN HUYÊN
Chu Xuân Huyên là con của Chu Khôi Nguyên - Chu Hoài Nguyên (đại đệ tử của Tôn sư Uông Vĩnh Tuyền). Chu Xuân Huyên hồi nhỏ gia đình cạnh nhà thầy Uông, nên thường xuyên qua chơi. Thầy Uông Vĩnh Tuyền bên cạnh có không ít đệ tử, học sinh đến học quyền. Viện rộng lớn, có luyện quyền, có đứng tấn, nhưng ông thích nhất là được nghe cụ Uông giảng quyền. Trở về nhà ông lại nghe cha dạy học giảng quyền cho các học trò, nghe đến thức tỉnh lòng người…
Xuân Huyên có nhận thức sâu sắc và cách nhìn độc đáo về Thái Cực Quyền truyền thống. Xuân Huyên và tôi rất hợp nhau, ông không có thiên kiến bè phái, tôi luyện Thái Cực Quyền Ngô môn cũng có quan điểm như vậy, chúng tôi đàm luận về quyền rất hợp ý nhau. Xuân Huyên chủ trương từ trong Quyền lý đã tự nghiệm thấy sâu sắc, có thể nói là “linh hoạt trong học và vận dụng”. Xuân Huyên thường nói: “Thái Cực Quyền vốn rất đơn giản, nhưng hậu sinh ngày càng làm cho nó phức tạp hơn”
Xuân Huyên vốn mang trong mình tuyệt kĩ Thái Cực Quyền, cư xử khiêm nhã, thuận hòa, lúc thuyết quyền ông có thể bộc bạch tất cả. Các thao tác Quyền lí ông nói dễ nắm bắt, nếu dùng quyền pháp này có thể đánh được Xuân Huyên. Ông cười và nói: “Nếu bạn làm đúng, tôi sẽ bị đánh bật ra!”, khi ông giảng quyền cho người khác, tay nắm tay thực hiện luôn, làm đúng, ông liền bị đánh bật ra, đây là một phẩm chất tốt, cũng là một điểm đáng quý ở ông.
Xưa nay trong xã hội thường nhìn thấy cảnh đánh người không bao giờ nói đạo lí… Buổi sáng và tối hàng ngày ông đều đến sân vận động công nhân luyện quyền, dù quen hay không quen, hễ đến trường quyền, có ai nói: “muốn học tập thầy Chu”, ông chỉ cười đáp lại: “cùng nhau nghiên cứu, giao lưu nhiều hơn”, chứ không bao giờ nói những lời làm tổn thương lòng tự trọng của người khác như: “Tôi dạy anh”, “anh không đúng”. Xuân Huyên sống ôn hòa, khiêm tốn, không bao giờ nói những lý luận uyên thâm, cũng không muốn độc chiếm Thái Cực Tùng Không Tuyệt Kĩ, luôn mở rộng cảnh cửa, tận thuyết tu luyện, chỉ sợ bạn không hiểu, nên giới thiệu nhiều lần mới thôi.
Quyền lí Xuân Huyên giảng rất đơn giản, dùng yếu tố tinh thần làm tắc. Có một vị bằng hữu bị đối phương đẩy một chưởng vào ngực, bên tấn công dùng lực đẩy, bên chống lại lắc ngực tránh dùng lực tay vuốt mạnh, lực hai bên giằng có quyết liệt. Xuân Huyên nhìn thấy vậy vội qua mỉm cười và nói: “Thái Cực không phải là việc tốn sức, mà dùng cả lực lớn như vậy, chẳng phải mệt lắm sao? Thái Cực Quyền của chúng ta dùng ý chứ không dùng lực”, ông nghĩ một lát rồi nói tiếp: “Ồ, đây là câu nói của đại sư Lý Diệc Xa.” Nói xong, ông mời hai vị lần lượt dùng một lực giống lúc nãy đánh vào ngực của mình, hai vị cùng lên một lúc nhưng ai cũng không dám đánh, bàn tay chưa chạm đến ngực của Xuân Huyên, thì hai chân ông đã di chuyển, người nhô lên, tung hai chưởng nhưng không phát ra lực.
Thầy Chu giải thích: “Đối phương nhằm vào ngực của bạn, bạn đừng để ý tới ngực, xung quanh bạn là khoảng không gian lớn như vậy, họ muốn chỗ nào thì đến được chỗ đó”, lời không nhiều nhưng hàm chứa triết lí sâu sắc giữa kình và tùng (dồn lực và thả lỏng), giữa lực và không (sức mạnh và trống rỗng).
Thái Cực Quyền tuyệt đối “không phải việc hao tốn sức lực” Xuân Huyên nói Thái Cực Quyền là tư tưởng, nhất tưởng tiện thị (vừa suy nghĩ hành động luôn). Còn nhớ đại sư Chu Khôi Nguyên không chỉ một lần nói với tôi về pháp tắc đẩy tay, ông nói: “Đối phương lao tới, xung quanh đều là đất của bạn, bạn muốn đặt họ vào chỗ nào, họ sẽ phải ở chỗ đó. Lúc này nếu bạn dùng lực, dùng sức lôi đẩy người ta thì có thể họ sẽ không bị bạn khống chế.” Thái Cực Thôi Thủ chính là đơn giản như vậy.
Dữ thời câu tiến (nắm bắt được đặc trưng đặc điểm của nó), đơn giản, dứt khoát, nếu bao năm luyện đi luyện lại mà luyện không được Thái Cực Quyền, nội công bất thượng thân (không vận được nội công), bạn nên thay đổi cách tư duy, có cách nhìn mới về Thái Cực Quyền. Xuân Huyên cho rằng tu luyện Thái Cực Quyền truyền thống, trước hết phải giải quyết rắc rối trong nhận thức về Thái Cực Quyền của người luyện, đầu tiên nếu “giải quyết vấn đề tư tưởng”, thì đó là những vấn đề tư tưởng nào? Với nhiều năm tiếp xúc với Xuân Huyên, tôi xin chia sẻ kinh nghiệm trong mấy khía cạnh sau:
1. Không nên xem Thái Cực Quyền là một thứ gì quá huyền bí, khó hiểu khó học. Tự nhiên, đơn giản, hư không. Xuân Huyên thôi thủ (đẩy tay) rất đơn giản, tự nhiên, nhẹ nhàng, tuy vậy mà đẩy vẫn không nổi ông.
2. Luyện quyền như thế nào thì đẩy tay như vậy, thân không nên loạn, cũng không nên chủ động, cũng không được làm bừa. Đẩy tay không phải là việc tốn sức, không được dùng lực mạnh, cần thực hư phân rõ đối phương đẩy tới. Không cần để ý đối phương nhằm vào đâu, thuận nhân chi thế, khuất dĩ tòng nhân, vươn người ra không trung, có thể giải khốn đắc an (hóa giải tình thế- giải quyết được khó khăn). Xuân Huyên khi đẩy tay xả kỉ tòng nhân (bỏ qua ý kiến của mình mà phục tùng theo người khác), xuất thủ hướng thân lên đẩy, ông nhẹ nhàng hóa mở tay bạn ra.
3. Đẩy tay qua lại dụng ý bất dụng lực. Không cần cầu thắng, trong lúc đẩy tay qua lại sự hoàn mĩ bí ẩn của nghệ thuật đẩy tay được thể hiện, thả lỏng, mềm mại, viên mãn, linh hoạt vận dụng thế dưỡng sinh kết hợp. Nhất định không được đẩy tay quá mạnh, làm thương người cũng là làm thương chính mình. Xuân Huyên tay không người không, dù bạn có đẩy như thế nào, ông cũng mỉm cười ung dung bình tĩnh.
4. Đẩy tay là sự vận dụng khéo léo kết hợp giữa các yếu tố ý, khí, trong ngoài của quyền cước, biến ảo khôn lường, động tác càng nhỏ càng tốt, để đối phương nhìn không ra cách thế, chuyển thân linh hoạt uyển chuyển, cảnh giới cao nhất là “vô hình vô tượng, toàn thể trong suốt” . Xuân Huyên lấy tĩnh đánh động (dĩ tĩnh đãi động), dùng khỏe ứng mệt(dĩ dật đãi lao), ung dung thản nhiên dĩ tiếu ứng đối.
5. Khi đẩy tay dùng bát pháp Bằng (nâng lên trên), Lý, Tê (ngăn đẩy), Án (đè giữ), Thái (hái lấy), Liệt (làm xoay chuyển), Trửu (dùng chỏ đánh địch), Kháo (dùng vai và mé ngoài của lưng đánh địch), khi vận dụng không nên cứng nhắc, nhất biến ứng vạn biến, trong Bằng có Thái, Tê, Án, trong Lý có Bằng, Tê, Án,…linh hoạt nắm bắt, nên tĩnh không thểđộng, lúc nên động cần nhẹ nhàng êm dịu.
6. Công phu càng luyện càng tinh, động tác càng nhỏ càng tốt, kỳ đại vô ngoại, kỳ tiểu vô nội (đã lớn thì cực lớn, đã nhỏ thì cực nhỏ), nhỏ thì phải đạt đến một điểm, Xuân Huyên dĩ điểm khinh hóa, không có lực điểm (điểm lực). Dáng người thế tay không được loạn động (di chuyển lung tung), tiếp thủ tứ tiêu không, nhất tiếp điểm trung cầu (tiếp tay tứ phương trống, vừa tiếp điểm phải tìm chính giữa). Tôi và Xuân Huyên thường nói khi đẩy tay phải ở giữa nửa muốn nửa không (vừa như có ý vừa như không), cầu chi bất đắc, bất cầu dã bất đắc (muốn cũng không được, không muốn cũng không được), rồi chặc lưỡi gật gù cảm nhận.
Phần giải thích cho bát pháp của Thôi Thủ: Nội dung tám động tác của thôi thủ: bằng, lý, tê, án, thái, liệt, trửu, kháo. Thường được phân biệt làm tứ chính thôi thủ bao gồm bốn động tác đầu, và tứ ngưng thôi thủ gồm bốn động tác sau.
Bằng: Có ý nghĩa nâng lên trên, lúc đáp thủ, phát kình nghịch đối phương, làm kình lực đối phương không thể đi xuống, gọi là bằng, nếu làm đúng phép có thể làm đối phương bay bổng lên.
Lý: Lúc đáp thủ, nếu đối phương dùng thế bằng hoặc thế tê đối với ta, thì ta thuận thế mà lý về đàng sau bên dưới; nếu làm đúng thế có thể làm đối phương ngã nhào về đàng trước.
Tê: Lúc đáp thủ ta dùng bàn tay hoặc cánh tay ngăn đẩy đối phương, làm đối phương không thể động thủ, rồi sau đó đẩy đối phương ra.
Án: Lúc đáp thủ, nếu đối phương dùng thế tê đối với ta, thì ta liền dùng tay hạ án phá thế tê.
Thái: Lúc đáp thủ, hễ nén (chế) đối phương, nắm bắt (thái : hái lấy) lực của đối phương ngay sát thân của đối phương, đều gọi là thái. Người giỏi dùng thế thái không kể lực của đối phương công kích tới như thế nào chăng nữa, đều có thể thái mà phá giải, và chọn chổ nhược của đối phương mà phản công lại.
Liệt: Có nghĩa là làm xoay chuyển (nửu chuyển); lúc đáp thủ nếu ta dời được, hóa giải được lực của đối phương và tấn công đối phương, gọi là liệt, mà trong lực học gọi là phân giải lực lượng đối phương, rối từ trắc diện tấn công thì có thể châu chấu đá voi.
Trửu: Là quan tiết ở giữa cánh tay. Trong Thái cực quyền, dùng chỏ đánh địch gọi là dùng thế trửu.
Kháo: Dùng vai và mé ngoài của lưng đánh địch gọi là kháo; lúc tiếp cận thân địch chính là cơ hội thích hợp để dùng kháo, chớ xem thường.
Thông tin về các lớp tập tại CLB Thái cực quyền Dương thị Uông mạch Hà Nội:
Lớp thái cực quyền truyền thống
và Lớp Khí công thái cực quyền để phục hồi sức khỏe