Tính mệnh song tu, trúc cơ bồi nguyên,
Lý luận tu luyện nội đan của tổ sư Trương Tam Phong - phần 2
Một đặc điểm khác của học thuyết nội đan Trương Tam Phong là coi trọng “trúc cơ bồi nguyên”. “Trúc cơ” chính là trúc đan cơ, tức là trước khi bắt đầu luyện đan cần làm tốt công tác chuẩn bị giống như việc xây nhà thì cần phải làm nền móng trước. “Bồi nguyên” chính là thông qua huấn luyện tâm tính nội tại, mà bồi bổ được nguyên khí bị hao tổn.
Tư tưởng trúc cơ bồi nguyên của Trương Tam Phong chủ yếu bao gồm nội dung trên ba phương diện:
Do nội dung của trúc cơ bao gồm luyện kỷ, nên trong đạo giáo thường liên kết hai thuật ngữ này làm một, gọi là trúc cơ luyện kỷ.
Trương Tam Phong cho rằng, chỉ có bổ túc Tinh, Khí, Thần trước rồi mới đi đến tu luyện Nội Đan. Ông chỉ ra: Trẻ nhỏ còn Tinh, Khí, Thần hoàn toàn thuần khiết, có thể trực tiếp đi vào tu luyện nội đan; Ngược lại, nếu như “Tam Bảo” Tinh, Khí, Thần không đầy đủ, mà vội vàng tu luyện ngay thì không những không đạt được mục đích trường sinh, thân thể khỏe mạnh mà còn bị tẩu hỏa nhập ma, nguy hiểm tới tính mạng. Đối với người trưởng thành hoặc người bị thất tình lục dục làm tổn thương, tình trạng Tinh, Khí, Thần bất túc, thì Trương Tam Phong đã đưa ra phương pháp nổi tiếng là “Âm Dương tài tiếp pháp” (Cách bồi khuyết Âm Dương), để bổ sung cho những khuyết thiếu. “Âm Dương Tài tiếp pháp” của ông chủ yếu thể hiện ở trong bài thơ “Vô căn thụ đạo tình nhị thập tứ thủ” (Cây không rễ có hai mươi bốn đầu). Trong hai mươi bốn đầu mục này thì có đầu mục thứ hai là nói về công pháp này. Toàn văn như sau:
Vô căn thụ, hoa chính vi, thụ lão trùng tân tiếp nộn chi. Mai ký liễu, tang tiếp lê, truyền tu chân tác dương nhi. Tự cổ Thần tiên tài tiếp pháp, nhân lão nguyên lai hữu dược y. Phỏng minh sư vấn phương nhi, hạ thủ tốc tu do thái trì.
(Cây không rễ, hoa tàn dần, cây già thì mầm non tiếp nối. Mai nương liễu, dâu đỡ lê, truyện chữa gốc cũng như vậy. Phép nuôi dưỡng của thần tiên xưa, người già đi vốn có thuốc chữa. Hỏi thầy giỏi dùng cách nào, ra tay chữa gấp còn chưa muộn.)
Theo giải thích của Lý Hàm Hư, “Vô căn thụ” chính là nói về cơ thể người vậy. Bách mạch trên cơ thể người đều sinh ra từ Khí, Khí sinh ra từ nơi hư vô, cho nên gọi là vô hạn. “Vi” chính là có ý suy yếu dần. “Ký” và “tiếp” là nói về Tính tiếp đón Mệnh. Ý của cả câu này là: theo tuổi tác lớn dần, thất tình lục dục của con người sẽ làm tổn hao Tinh Thần Khí của cơ thể, cuối cùng thì Tính Mệnh suy yếu, vì thế nhất thiết phải tăng cường bồi bổ. Trương Tam Phong có chi tiết hơn về Tính tiếp Mệnh trong “Âm Dương tài tiếp pháp”: “Khí huyết suy, nghi bổ tiếp, minh sư thân thụ khẩu trung quyết. Hoa trì ngọc dịch trục thời thôn, đào ổ quỳnh tương tùy nhật hấp. Tuyệt lự ý, xích tự tâm, quy căn phục mệnh tiên nhân nghiệp.” (Khí huyết suy, cần bồi bổ, thầy giỏi bên cạnh ngay trong miệng. Ngọc dịch lắng đọng nuốt từng đợt, tích lũy dần theo ngày tháng. Bỏ lo nghĩ, tâm trẻ thơ, trở về đi theo bậc người tiên)
Những câu thơ này giải thích 4 vấn đề sau:
1 - Tính cần thiết của Bổ khuy
2 - Bổ khuy được thầy giỏi chỉ dẫn
3 - Do minh sư truyền thụ phương pháp bổ khuy đúng đắn
Trong đoạn thơ có nói “Hoa trì ngọc dịch” và “đào ổ quỳnh tương” đều là chỉ khẩu tân (nước bọt trong miệng). Trong cuốn “Linh bảo tất pháp” phần “Trung thừa trường sinh bất tử pháp môn” có giới thiệu chi tiết về phương pháp này. Phương pháp này dùng đầu lưỡi đặt lên vòm họng, đợi sau khi ngọc dịch đầy trong miệng, không dùng súc miệng trực tiếp mà nuốt xuống là được. Chỉ cần kiên trì làm như vậy, đến thời điểm nhất định, Tinh Khí Thần sẽ đầy đủ, sau đó thì có thể luyện Đan rồi.
4 - Nói rõ tính trọng yếu của An Tâm
Trương Tam Phong sinh sống vào giữa triều Nguyên và Minh thì không thể không chịu ảnh hưởng tư tưởng của thời đại đó. Giai đoạn giữa Nguyên và Minh là thời Nho học mới – thời kỳ phát triển hưng thịnh Lý học, tư tưởng này ảnh hưởng sâu sắc tới nhiều phương diện của đời sống xã hội. Trong bối cảnh ấy, pháp đan của Trương Tam Phong hấp thu những yếu tố tích cực của nó thì cũng là hợp tình hợp lý vậy. Ông nói, bất kể sang hèn hiền ngu, nam nữ già trẻ, chỉ cần hành thiện tích đức, quảng thí nhân từ, thương xót muôn dân, thành thực phúc hậu, trung hiếu lưỡng toàn, thế thì sẽ trở thành tiên một ngày không xa. Học thuyết nội đan của Trương Tam Phong chú trọng Trung, Hiếu, Thành, Tín đủ để thấy sắc thái luân lý trong đó sâu dầy vậy. Tuy nhiên, Trương Tam Phong không đưa nguyên giáo thuyết chuyên môn của lý học mà cải tiến nội dung mới.
Trong học thuyết nội đan của Trương Tam Phong, các phạm trù luân lý Trung- Hiếu- Thành- Tín sau khi được đổi mới nội dung và điều chỉnh kết cấu thì trở thành trình tự hữu cơ của đường lối tu hành. Tuy nhiên, Trương Tam Phong chỉ ra: “Thế nhân dĩ đức hành vi tiên, âm công vi bản, sát âm dương tạo hóa chi cơ… tắc đan thành phản chưởng hĩ” (Người thường lấy Đức làm đầu, luyện âm công làm cơ bản, tìm hiểu động cơ của âm dương tạo hóa… thì tất luyện thành Đan như trở bàn tay vậy). Trương Tam Phong đi từ tu dưỡng đạo dức của xã hội thế tục để luận tới tu luyện nội đan. Theo quan điểm của Trương Tam Phong, người tu luyện nội đan đầu tiên là ở trong xã hội thế tục thì phải nên tu dưỡng đạo đức xã hội làm cơ sở, làm nhiều việc thiện, như thế mới có thể thấy rõ động cơ và lý lẽ của âm dương tạo hóa. Trong nội dung này, Trương Tam Phong không chỉ thuần tùy giảng giải về vấn đề hàm dưỡng đạo đức xã hội, mà ở sâu bên trong, hàm dưỡng đạo đức kỳ thực đã trở thành giai đoạn quan trọng của tu luyện nội đan. Bởi vì chỉ có thông qua giai đoạn này, mới có thể cuối cùng đạt tới công phu hoàn đan “dễ như trở bàn tay” (dị như phản chưởng).
Đây là giai đoạn rất quan trọng trong nội đan học. “Kỷ” có xuất phát từ Mậu Kỷ trong thập đại thiên can. Mậu kỷ trong ngũ hành là thuộc thổ, cho nên luyện kỷ từ góc độ ngũ hành xem xét thì đó là luyện gốc thổ. Trong nội đan học, thổ của ngũ hành lại chia ra Mậu thổ và Kỷ thổ. Mậu thổ, gọi là ngoại dược, gốc dương trong âm, mang tính chủ động; Kỷ thổ, gọi là nội dược, gốc âm trong dương, mang tính chủ tĩnh. Trên thực tế, hai thổ này hợp lại thì thành Ly Khảm, để tượng trưng cho Nguyên thần, Nguyên khí. Từ ý nghĩa này, luyện kỷ chính là luyện nguyên thần, nguyên khí, lấy lại thứ mất đi của hậu thiên, cho nên Trương Tam phong nói: “Luyện kỷ chỉ là dưỡng nguyên thần”. Tất nhiên, luyện kỷ cũng mang ý nghĩa “luyện Tính”. Gọi là luyện Tính chính là giảm thiểu dục vọng và lo nghĩ bản thân, khống chế tình cảm bản thân.
Trương Tam Phong nói: “Sơ công tại tịch mịch tình duyên, tảo trừ tạp niệm, tảo trừ tạp niệm thị đệ nhất chiêu trúc cơ luyện kỷ chi công dã. Nhân tâm ký trừ, thuận thiên tâm lai phục; nhân dục ký tịnh, thuận thiên lý thường tồn” (Ban đầu luyện công trong cảnh cô đơn, loại trừ tạp niệm, loại trừ tạp niệm là bước thứ nhất trong công pháp trúc cơ luyện kỷ. Lòng người đã sạch thì đi theo Lòng trời; ham muốn đã hết thì theo trời tồn tại). Chỉ có ít lo ít muốn thì tâm mới trở nên an tĩnh, chuyên tâm luyện đan. Tiếp theo, Trương Tam Phong đưa ra yêu cầu cụ thể về phương pháp và điều kiện hoàn cảnh loại trừ tạp niệm. Về phương pháp, Trương Tam Phong nhận định cách an tâm tốt nhất cho người tu luyện là khống chế con mắt của mình; đôi mắt nhìn vào mũi, mũi thẳng với rốn, như thế trên dưới nhìn nhau, hô hấp và tim đập hòa cùng nhau vì thế mà tâm trở nên Tĩnh. Về điều kiện hoàn cảnh, Trương Tam Phong cho rằng nên tu luyện trong thế tục, chỉ có ở tại trần tục thế gian phức tạp, lộn xộn, làm được ít lo ít muốn thì đan cơ mới thực sự kiên cố. Cho nên ông nhấn mạnh “Luyện kỷ tại trần tục”.
Trương Tam Phong không những chú trọng luyện kỷ mà còn chú trọng dưỡng khí. Khi giảng về dưỡng khí cũng nói rõ về phương pháp và điều kiện hoàn cảnh. Ông cho rằng phương pháp dưỡng khí là “vong ngôn thủ nhất, giam thiệt tĩnh, bão thần định” (giữ miệng không nói, giữ lưỡi an tĩnh, giữ tinh thần ổn định). Quan niệm này rất giống với pháp môn tọa vong (ngồi quên) được Trang Tử mô tả. Xem từ trình tự động tác, đây chính là yêu cầu người tu luyện vô lo vô nghĩ, tinh thần tập trung cao độ, từ đó đi vào cảnh giới tự do. Về phương diện lựa chọn điều kiện hoàn cảnh, Trương Tam Phong không chủ trương dưỡng khi chốn trần tục huyên náo mà cho rằng dưỡng khí nên ở trong núi rừng.
Chọn dưỡng khí ở nơi núi rừng là vì sơn lâm tĩnh lặng, có được không khí trong lành. Tiếp theo, làm sao để tiến bộ về dưỡng khí điều thần, Trương Tam Phong kế thừa phương pháp của người xưa về “Luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, luyện thần hoàn hư”, đi sâu hơn cụ thể hóa quá trình này, ông chỉ ra mỗi tháng, mỗi ngày, mỗi thời, mỗi khắc đều nên điều phối và thăng hoa Khí và Thần như vậy. Như thế không chỉ phong phú về nội dung tu luyện nội đan mà còn thể hiện nét đặc sắc mới của phép luyện đan Trương Tam Phong. Nói tóm lại, Nội đan học của Trương Tam Phong là cách tân từ truyền thống vậy.
Thông tin về các lớp tập tại CLB Thái cực quyền Dương thị Uông mạch Hà Nội:
Lớp thái cực quyền truyền thống
và Lớp Khí công thái cực quyền để phục hồi sức khỏe